Nhắc đến sản phẩm này, cần nói đến hòan cảnh ra đời không mấy thuận lợi của nó. Nhu cầu ứng dụng CNTT vào quản lý và điều hành sản xuất nhà máy chế biến thủy hải sản tại Việt Nam khá lớn nhưng chưa có sản phẩm theo hướng chuyên ngành như vậy. Các đơn vị khi có nhu cầu đều phải nhập những sản phẩm phần mềm quản lý điều hành sản xuất của Châu Âu với chi phí lớn. Đó là chưa kể đến quá trình “bản địa hóa” để đưa vào các quy trình nghiệp vụ vừa làm tăng chi phí lại vừa chậm tiến độ sản xuất. Về phía các doanh nghiệp phần mềm trong nước, dù nhận thấy nhu cầu này nhưng khó có thể đáp ứng do việc đầu tư vào nghiên cứu một lĩnh vực mới, đòi hỏi đầu tư lâu dài trong khi khả năng thành công không cao.
Bà Trần Mai Anh phó giám đốc kinh doanh Công ty ATO bước lên bục nhận giải thưởng sao khuê 2010
Nắm bắt được thực tế đó, từ cuối năm 2007, Công ty ATO đã nỗ lực liên hệ, phối hợp với các đơn vị chế biến thủy hải sản để nghiên cứu quy trình sản xuất và các hoạt động nghiệp vụ khác, tiến tới việc thiết kế giải pháp và phần mềm ứng dụng cho lĩnh vực này. ATO đã lập hồ sơ dự án và thiết kế sản phẩm, cung cấp phiên bản thử nghiệm đầu tiên vào tháng 11 năm 2008. Sản phẩm xong hành cùng với quá trình xây dựng Nhà máy Thủy Hải Sản An Phú (An Nhơn – Đồng Tháp). Qua 4 tháng liên tục chạy thử nghiệm và hoàn thiện sản phẩm, đến tháng 7/ 2009, S-mart_seafood đã được chính thức ứng dụng và cho ra lô hàng đầu tiên lưu kho. Đây được coi bước khởi đầu thành công với một sản phẩm CNTT có giá trị ứng dụng lớn cho ngành chế biến thủy hải sản tại Việt Nam.
Bà Trần Mai Anh phó giám đốc kinh doanh Công ty ATO (Mặc áo xanh) lên nhận giải Sao khuê năm 2010
Thực tế tại nhà máy Thủy Hải Sản An Phú cho thấy, giải pháp này đã đảm bảo sự vận hành liên thông của cả một hệ thống các module nhỏ phục vụ cho nhu cầu nghiệp vụ. Hơn nữa, nó còn có sự liên quan chặt chẽ đến thiết bị để có thể hoạt động tốt trong môi trường ẩm ướt đặc thù của quy trình chế biến thực phẩm đông lạnh. Về hiệu quả, Smart-Seafood giúp doanh nghiệp có thể tiết kiệm 70% chi phí so với sản phẩm ngoại nhập. Để triển khai tổng thể giải pháp này từ thiết bị đến phần mềm, khách hàng chỉ phải bỏ ra từ 2,5 – 3 tỷ đồng cho một nhà máy, trong khi đó các sản phẩm ngoại nhập từ Châu Âu có mức giá từ 10 đến 15 tỷ đồng. Mặt khác, việc hỗ trợ dịch vụ của ATO nhanh chóng và tiết kiệm chi phí hơn so với sản phẩm ngoại nhập rất nhiều: Một chuyên gia từ Châu Âu qua hỗ trợ sản phẩm mỗi lần phía khách hàng phải bỏ ra trừ 5 đến 10 nghìn EURO. Trong khi đó ATO hỗ trợ bảo dưỡng và bảo hành sản phẩm miễn phí trong thời gian bảo hành đồng thời với mức phí ưu đãi trong thời gian Bảo trì sau bảo hành. Bên cạnh đó, nó còn giúp tăng năng suất lao động, giảm tỷ lệ hao phí trong sản xuất, giảm thiểu những rủi ro về chất lượng hàng xuất khẩu.
Cán bộ ATO chụp ảnh lưu niệm với Ông Nguyễn Đình Thắng Phó chủ tịch VINASA
Với giải pháp công nghệ cao và đã được ứng dụng thành công này, các doanh nghiệp trong ngành chế biến thủy hải sản có cơ hội lớn trong việc ứng dụng CNTT vào quy trình sản xuất kinh doanh, đồng thời tiết kiệm chi phí đầu tư do sử dụng giải pháp “nội”.